Viêm âm đạo không đặc hiệu là gì? Các công bố khoa học về Viêm âm đạo không đặc hiệu

Viêm âm đạo không đặc hiệu là một tình trạng viêm ở âm đạo do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng không phải do các loại vi khuẩn đặc hiệu như nhiễm trùng vi khu...

Viêm âm đạo không đặc hiệu là một tình trạng viêm ở âm đạo do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng không phải do các loại vi khuẩn đặc hiệu như nhiễm trùng vi khuẩn vaginosis, viêm âm đạo do nấm hoặc vi trùng chlamydia. Điều này có thể gây ra các triệu chứng như ngứa, đỏ, rát hoặc chảy âm đạo. Viêm âm đạo không đặc hiệu thường xảy ra khi cân bằng vi khuẩn trong âm đạo bị gián đoạn, cho phép vi khuẩn gây viêm phát triển. Nguyên nhân bao gồm stress, sử dụng quá nhiều các sản phẩm dưỡng âm đạo, thay đổi hormone, dùng kháng sinh, hoặc có một hệ miễn dịch yếu. Để điều trị viêm âm đạo không đặc hiệu, cần tìm hiểu nguyên nhân cụ thể của tình trạng viêm và áp dụng phương pháp điều trị tương ứng.
Viêm âm đạo không đặc hiệu (vulvovaginitis không đặc hiệu) là một tình trạng viêm âm đạo được gây ra bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng không phải do các loại vi khuẩn đặc hiệu như vi khuẩn Gardnerella vaginalis gây nhiễm trùng vi khuẩn vaginosis, nấm Candida gây viêm âm đạo hay vi trùng Chlamydia gây nhiễm trung âm đạo.

Nguyên nhân của viêm âm đạo không đặc hiệu có thể bao gồm:

1. Thay đổi vi khuẩn hữu ích: Môi trường âm đạo bình thường có sự cân bằng giữa các vi khuẩn có lợi và có hại. Khi sự cân bằng này bị gián đoạn, các vi khuẩn gây viêm có thể phát triển, dẫn đến viêm âm đạo. Các nguyên nhân có thể gồm tình trạng miễn dịch yếu, stress, sử dụng quá nhiều các sản phẩm dưỡng âm đạo (như xà phòng, tẩy trang), dùng kháng sinh hoặc corticosteroid.

2. Sự vi phạm vệ sinh cá nhân: Việc không giữ vùng kín và âm đạo sạch sẽ có thể tạo điều kiện cho sự phát triển của vi khuẩn và nấm gây viêm. Sử dụng quần bịt chặt và quần áo không hấp thụ mồ hôi cũng có thể gây ra môi trường nhức mạnh và ẩm ướt, thuận lợi cho vi khuẩn gây viêm phát triển.

3. Sử dụng các chất kích thích: Việc sử dụng các chất kích thích như thuốc lá, cồn, hút thuốc lá, chất kích thích quan hệ tình dục (như gel dầu) có thể kích thích và gây viêm âm đạo.

Các triệu chứng của viêm âm đạo không đặc hiệu bao gồm ngứa, đỏ âm đạo, rát, chảy âm đạo và một số kỳ kinh không đều (nếu sự thay đổi vi khuẩn ảnh hưởng đến kỳ kinh).

Để chẩn đoán viêm âm đạo không đặc hiệu, bác sĩ thường sẽ thực hiện một cuộc khám và thu thập mẫu bệnh phẩm để xét nghiệm. Tùy thuộc vào nguyên nhân cụ thể của viêm âm đạo, bác sĩ có thể đưa ra phương pháp điều trị hợp lý, bao gồm sử dụng thuốc kháng vi khuẩn hoặc thuốc chống nấm, thực hiện vệ sinh cá nhân đúng cách và điều chỉnh lối sống.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "viêm âm đạo không đặc hiệu":

34. Viêm âm đạo không đặc hiệu và một số yếu tố liên quan
Nghiên cứu mô tả cắt ngang với phương pháp phỏng vấn, khám phụ khoa và nhuộm soi dịch tiết âm đạo được tiến hành nhằm tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến viêm âm đạo không đặc hiệu ở phụ nữ đến khám tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Kết quả: Đa số phụ nữ mắc viêm âm đạo không đặc hiệu ở độ tuổi từ 19 đến 39, sống ở nông thôn, có thu nhập từ trung bình trở xuống, có trình độ học vấn ở mức phổ thông và là lao động đơn giản/ công nhân.Các yếu tố liên quan đến viêm âm đạo không đặc hiệu được chia thành 2 nhóm là thói quen vệ sinh và hành vi tình dục. Hai yếu tố nguy cơ làm tăng khả năng mắc bệnh là rửa bộ phận sinh dục ngoài bằng cách ngâm vào bồn, chậu và tránh thai bằng dụng cụ tử cung. Hai yếu tố bảo vệ làm giảm nguy cơ mắc bệnh là được nhân viên y tế hướng dẫn vệ sinh sinh dục và tránh thai bằng bao cao su. Các yếu tố không liên quan đến bệnh gồm: Vệ sinh sinh dục trước và sau giao hợp, thụt rửa sâu trong âm đạo và có từ 2 bạn tình trở lên.
#Viêm âm đạo không đặc hiệu #viêm âm đạo do vi khuẩn #yếu tố nguy cơ #đặc điểm lâm sàng
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA VIÊM ÂM ĐẠO KHÔNG ĐẶC HIỆU TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của viêm âm đạo không đặc hiệu tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 8/2020 - 8/2021. Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang trên 39 bệnh nhân được chẩn đoán xác định viêm âm đạo không đặc hiệu bằng tiêu chuẩn Amsel đến khám trong thời gian nghiên cứu. Kết quả: Bệnh thường gặp ở nhóm tuổi từ 18-30 tuổi (66,6%). Tiền sử sản phụ khoa liên quan nạo hút thai 33,3%, sảy thai 10,3%. Đa số bệnh nhân có triệu chứng cơ năng (61,5%), trong đó, thường gặp mùi khí hư (79,5%), ngứa rát âm hộ (48,7%), giao hợp đau (33,3%). Khám âm hộ âm đạo phát hiện 61,5% trường hợp viêm đỏ, đa số dịch nhiều 69,2%. Test sniff và tế bào clue dương tính ở 100% trường hợp, 66,7% có số lượng trực khuẩn gram âm từ 2+ trở lên, 94,9% số lượng lactobacilli từ 1+ trở xuống, độ lactobacilli IIb chiếm 51,3%, độ III 23,1%. Phân loại hệ vi sinh vật theo Nugent có 59% từ 4-6 điểm và 41% từ 7-10 điểm. Kết luận: Viêm âm đạo không đặc hiệu có xu hướng gặp ở phụ nữ trẻ, liên quan đến tiền sử thai sản và có biểu hiện rối loạn hệ vi sinh vật tại âm đạo.
#Viêm âm đạo không đặc hiệu #lactobacilli
Hiệu quả điều trị của Gynoflor trong viêm âm đạo không đặc hiệu tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 2 - Trang 75-78 - 2014
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị viêm âm đạo không đặc hiệu bằng Gynoflor. Đối tượng nghiên cứu: 65 phụ nữ từ 18 tuổi trở lên được chẩn đoán viêm âm đạo không đặc hiệu. Loại trừ: có thai, cho con bú, đang viêm âm đạo cấp do Nấm, Trichomonas. Phương pháp nghiên cứu: can thiệp lâm sàng không đối chứng. Kết quả: giao hợp đau chiếm 66,7%, nhưng sau điều trị còn 2,4%, ngứa rát âm hộ có 6,1%, sau điều trị lên 34,1%. Đái buốt, đái rắt trước điều trị chiếm 39,4% nhưng sau điều trị là 7,3%. Khí hư màu vàng xanh có bọt 58,5%, sau điều trị còn 6,2%, khí hư trắng loãng hoặc xám đồng nhất, dính 38,5%, còn 15,4%. Khí hư trắng như bột, thành mảng, tăng lên sau điều trị từ 2 lên 14 trường hợp. Sau khi điều trị Test sniff và Clue cells trở về âm tính chiếm 86,2%, chỉ còn 13,8% dương tính. Tỷ lệ này giảm rõ rệt so với trước điều trị , với p < 0,001. Sau điều trị có 11 trường hợp bị nấm âm đạo chiếm 16,9%. Thay đổi cầu khuẩn Gram dương không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p >0,05. Trực khuẩn Gram âm có sự thay đổi rõ rệt sau điều trị so với trước điều trị, ngay cả trường hợp dương tính cũng có sự thuyên giảm từ 2+ xuống 1+. Trực khuẩn Gram dương sau điều trị đã cải thiện rất nhiều tới 96,9%. BV khỏi và đỡ chiếm 78,5%. Thất bại là 21,5%. Kết luận: Tỷ lệ hết trực khuẩn Gram (-) là 75,4%. Tỷ lệ trực khuẩn Gram dương (lactobacilli) cải thiện rõ từ 40% lên tới 96,9%. Tỷ lệ khỏi và đỡ với BV là 78,5%.
#Viêm âm đạo không đặc hiệu #điều trị
Tổng số: 3   
  • 1